1. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
Qua
nghiên cứu 2.173 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An từ kết quả điều tra
doanh nghiệp năm 2018, để phân tích một số yếu tố gián tiếp ảnh hưởng tới lợi
nhuận của doanh nghiệp. Nghiên cứu các yếu tố sau:
Yếu
tố độc lập bao gồm: lao động, lao động nữ, tài sản, vốn chủ sở hữu.
Yếu
tố phụ thuộc là lợi nhuận của doanh nghiệp.
Từ
đó phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp qua việc sử
dụng phần mềm SPSS đã cho kết quả phân tích như sau: - Adjusted R Square: đây là R
bình phương hiệu chỉnh, nó phản ánh mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập lên
biến phụ thuộc, cụ thể trường hợp này 4 biến độc lập đưa vào ảnh hưởng 27,6% biến
phụ thuộc còn lại các biến ngoài mô hình và
sai số tự nhiên.
Model
Summaryb (Tóm tắt mô hình)
|
Model
(mô hình)
|
R
|
R Square
|
Adjusted R
Square
|
Std. Error
of the Estimate
|
Change
Statistics
|
Durbin-Watson
|
R Square
Change
|
F Change
|
df1
|
df2
|
Sig. F
Change
|
1
|
.526a
|
.277
|
.276
|
23112.829
|
.277
|
207.718
|
4
|
2168
|
.000
|
2.517
|
- Durbin-Watson: Sử dụng để kiểm
định tự tương quan của các sai số kề nhau
(hay còn gọi là tương quan chuỗi bậc nhất) có giá trị biến thiên từ khoảng 0 đến
4; nếu các phần không có chuỗi tương quan chuỗi bậc nhất thì giá trị sẽ gần bằng
2 (từ 1 đến 3), nếu giá trị càng nhỏ, gần về 0 thì các phần sai số có tương
quan thuận; nếu càng lớn, gần về 4 có nghĩa là các phần sai số tương quan nghịch.
Như vậy mô hình đã được kiểm định
Kiểm
tra mô hình ANOVA cho thấy giá trị của kiểm định F có Sig là 0,000 <0,05 như
vậy mô hình hồi quy tuyến tính xây dựng được phù hợp với tổng thể nghiên cứu.
ANOVAa (Kiểm tra mô hình)
|
Model
|
Sum of Squares
(Tổng bình phương)
|
df
|
Mean Square
(ý nghĩa Bình phương)
|
F
|
Sig.
|
1
|
Regression
(Hồi quy)
|
443854486973.435
|
4
|
110963621743.359
|
207.718
|
.000b
|
Residual
(Số dư)
|
1158151768439.104
|
2168
|
534202845.221
|
|
|
Total (Tổng)
|
1602006255412.538
|
2173
|
|
|
|
Qua
các bước kiểm tra cho thấy mô mình nghiên cứu có ý nghĩa về thống kê
Coefficientsa (Hệ số)
|
Model
|
Unstandardized Coefficients
(Hệ số không đạt
tiêu chuẩn)
|
Standardized Coefficients
(Hệ số đạt
tiêu chuẩn)
|
t
|
Sig.
|
Correlations
(Tương quan)
|
Collinearity Statistics
(Dự đoán thống kê)
|
B
|
Std. Error
|
Beta
|
Zero-order
|
Partial
(một phần)
|
Part
(phần)
|
Tolerance
(dung sai)
|
VIF
|
|
(Constant)
|
-514.578
|
534.139
|
|
-.963
|
.335
|
|
|
|
|
|
Lao động
|
5.736
|
5.934
|
.046
|
.967
|
.334
|
.052
|
.021
|
.018
|
.150
|
6.685
|
Lao động nữ
|
2.697
|
7.106
|
.017
|
.380
|
.704
|
.062
|
.008
|
.007
|
.161
|
6.201
|
Tài sản
|
-.040
|
.002
|
-.542
|
-20.493
|
.000
|
-.042
|
-.403
|
-.374
|
.476
|
2.101
|
Vốn CSH
|
.148
|
.005
|
.711
|
28.480
|
.000
|
.353
|
.522
|
.520
|
.535
|
1.869
|
|
Từ
bảng Coefficientsa (hệ số) cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận
trước thuế của doanh nghiệp, để tăng 1 triệu đồng lợi nhuận cần tăng 0,71 triệu
đồng vốn chủ sở hữu, cần 0,017 lao động nữ và 0,046 lao động.
Nghệ
An là tỉnh có diện tích đất tự nhiên lớn nhất cả nước (16.481 km2), dân số trên 3,13
triệu người, với hơn 1,88 triệu lao động đây là thời kỳ dân số vàng. Việc đầu
tư phát triển doanh nghiệp là tiền đề cho phát triển kinh tế và giải quyết việc
làm, tạo thu nhập, mức sống dân cư ngày càng được nâng lên. Năm 2017, toàn tỉnh
có 9.431 doanh nghiệp, tăng 13,01% so cùng kỳ năm 2016. Đồng thời tạo việc làm
cho 208.675 lao động, tăng 6,14%, như vậy lực lượng lao động tham gia trong các
doanh nghiệp chiếm trên 10% lực lượng lao động toàn tỉnh. Trong đó, doanh
nghiệp đã giải quyết việc làm cho 82.157 lao động nữ. Năm 2018 có 10.685 doanh
nghiệp đang hoạt động, tăng 13,29% so với năm 2017.
2. Đề xuất giải pháp nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp của tỉnh Nghệ An
trong thời gian tới
Nghiên
cứu lợi nhuận của 2.173 doanh nghiệp của tỉnh Nghệ An, có 1.483 doanh nghiệp có
lãi chiếm 68,25% (trong đó: doanh nghiệp có lợi nhuận lớn hơn và bằng 100 triệu
đồng là 603 doanh nghiệp chiếm 40,66%, số doanh nghiệp có lợi nhuận nhỏ hơn 100
triệu đồng và lớn hơn 10 triệu đồng là 658 doanh nghiệp chiếm 42,95%, còn lại
doanh nghiệp hoạt động có lợi nhuận nhỏ hơn và bằng 10 triệu đồng là 222 doanh
nghiệp chiếm 16,39%); Doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh hòa vốn có 53
doanh nghiệp chiếm 2,44%; doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ 637 doanh nghiệp
chiếm 29,31%.
Qua
nghiên cứu chọn mẫu 2.173 doanh nghiệp của tỉnh Nghệ An năm 2017, từ kết quả
hoạt động của doanh nghiệp tôi đã đưa ra một số giải pháp nhằm tối đa hóa lợi
nhuận doanh nghiệp trong thời gian tới như sau.
2.1. Sử dụng đòn bẩy tài chính
Để tăng khả năng chi trả những chi phí cố định
khi sử dụng tài sản hoặc vốn nhằm tăng khả năng hoàn trả. Tác dụng của đòn bẩy tài
chính xuất hiện khi doanh nghiệp có những chi phí cố định. Hệ thống đòn bẩy
được doanh nghiệp sử dụng trong quản lý tài chính là đòn bẩy kinh doanh, đòn
bẩy tài chính, đòn bẩy tổng hợp.
Vòng quay tài sản (năm 2017)
|
=
|

Tổng doanh thu thuần 
|
Tổng tài sản trung bình
|
|
|
|
Vòng quay tài sản (năm 2017)
|
=
|
116.924.082,3 
|
137.087.675,4
|
Vòng
quay tài sản = 0,85
Như
vậy, qua nghiên cứu ở Nghệ An năm 2017, để tạo ra 1 triệu đồng doanh thu cần
đầu tư 0,85 triệu đồng tài sản.
Đầu
tư tài sản, đầu tư tài chính là biện pháp hữu hiệu tăng doanh thu cho doanh
nghiệp. Sử dụng các loại đòn bẫy trong kinh doanh là một giải pháp tối đa hóa
lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.1.1. Đòn bẩy kinh doanh
Là
sự kết hợp giữa chi phí bất biến và chi phí khả biến trong việc điều hành doanh
nghiệp. Đòn bẩy kinh doanh sẽ rất lớn trong các doanh nghiệp có tỷ lệ chi phí
bất biến cao hơn so với chi phí khả biến, ngược lại đòn bẩy kinh doanh sẽ thấp
khi tỷ lệ chi phí bất biến nhỏ hơn chi phí khả biến.
Khi
đòn bẩy kinh doanh cao, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ về sản lượng tiêu thụ cũng
làm thay đổi lớn về lợi nhuận. Nghĩa là, lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ rất nhạy
cảm với thị trường khi doanh thu biến động. Đòn bẩy kinh doanh có cơ sở từ quan
hệ giữa doanh thu của một công ty với những thu nhập khi chưa trả chi phí lãi vay
và nộp thuế cho Nhà nước.
Như vậy, đòn bẩy
kinh doanh là tỷ lệ thay đổi về lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT: earning
before interest and tax) phát sinh do sự thay đổi về sản lượng tiêu thụ. Độ lớn
của đòn bẩy kinh doanh (DOL: degree oprating leverage) tồn tại trong doanh
nghiệp ở mức độ sản lượng cho sẵn được tính theo công thức:
DOL = tỷ lệ thay
đổi EBIT/ tỷ lệ thay đổi sản lượng tiêu thụ
Chúng ta có thể
thành lập công thức để do lường độ lớn của đòn bẩy kinh doanh như sau: gọi F là
định phí (không có lãi vay)
V là biến phí trên
một đơn vị sản phẩm
g là giá bán một
sản phẩm
Khi tiêu thụ được
sản phẩm ta sẽ đạt được lợi nhuận trước thuế và lãi vay là P0,
ta có P0 = Tổng doanh thu – Tổng chi phí
=
Q0g - (F + Q0V) = Q0 (g - V) - F
Nếu
tiêu thụ được sản phẩm thì sẽ đạt được lợi nhuận trước thuế và lãi vay là P1,
ta có P1 = Tổng doanh thu – Tổng chi phí
= Q1 (g - V) - F
Gọi: Q = Q1 - Q0 , ta có
P =
P1 - P0 = Q1 (g - V) - F - Q0 (g - V)
+ F
= Q1 (g - V) – Q0 (g -
V) = (Q1 - Q0) (g - V)
= Q (g - V)
Khi đó độ lớn của đòn bẩy kinh doanh (DOL) ở mức độ sản
lượng được xác định như sau:
DOL = Tỷ lệ
thay đổi của EBIT / Tỷ lệ thay đổi sản lượng tiêu thụ
=
lợi nhuận / lợi nhuận gốc / sản lượng / sản lượng gốc
=
Q (g - V) / [Q0 (g - V) - F]
Như
vậy, độ lớn của đòn bẩy kinh doanh đặt trọng tâm vào định phí và tỷ lệ thuận với
định phí. DOL cho biết lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ thay đổi như thế nào khi
lượng bán thay đổi 1%. Đòn
bẩy kinh doanh có tác dụng: Đòn bẩy kinh doanh là công cụ được các nhà quản lý
sử dụng để gia tăng lợi nhuận, ở doanh nghiệp trang bị tài sản cố định hiện đại,
định phí rất cao, biến phí rất nhỏ thì sản lượng hoà vốn rất lớn. Nhưng một khi
đã vượt qua điểm hoà vốn thì lại có đòn bẩy rất lớn, do đó chỉ cần một sự thay
đổi nhỏ của sản lượng cũng sẽ làm gia tăng một lượng lớn lợi nhuận.
Chúng ta có công
thức đo lường sự tác động của đòn bẩy kinh doanh tới sự gia tăng lợi nhuận như
sau:
Tỷ lệ gia tăng EBIT
= DOL * Tỷ lệ thay đổi về sản lượng tiêu thụ
Đòn bẩy kinh doanh
cung cấp cho các nhà quản lý doanh nghiệp một công cụ để dự kiến lợi nhuận. Đòn
bẩy kinh doanh thuộc phạm vi mà những chi phí cố định được sử dụng có lợi trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên cần lưu ý rằng: đòn bẩy kinh doanh như
“con dao hai lưỡi”, chúng ta biết đòn bẩy kinh doanh phụ thuộc vào định phí,
nếu vượt qua điểm hoà vốn thì doanh nghiệp nào có định phí cao sẽ thu được lợi
nhuận cao, nhưng nếu chưa vượt quá điểm hoà vốn, ở cùng một mức độ sản lượng
thì doanh nghiệp nào có định phí càng cao thì lỗ càng lớn. Điều này giải thích
tại sao các doanh nghiệp phải phấn đấu để đạt được sản lượng hoà vốn. Khi vượt
quá điểm hoà vốn thì đòn bẩy kinh doanh luôn luôn dương và nó ảnh hưởng tích
cực tới sự gia tăng lợi nhuận.
2.1.2. Đòn bẩy tài chính
Là mối quan hệ tỷ
lệ giữa vốn mắc nợ và tổng số vốn hiện có, đôi khi người ta còn gọi là hệ số
nợ. Thông qua hệ số nợ, người ta còn xác định được mức độ góp vốn của chủ sở
hữu với số nợ vay, nó có một vị trí và tầm quan trọng đặc biệt và được coi như
một chính sách tài chính của doanh nghiệp.
Nếu gọi: C là tổng
vốn chủ sở hữu, V là tổng số nợ vay
T là tổng vốn kinh
doanh mà doanh nghiệp đang sử dụng
(T = C + V)
Hv là hệ số nợ vay
Hv = V/ T
Thực tế tại Nghệ An, C = 42.463,3 tỷ đồng; V =
94.624,3 tỷ đồng.
Như vậy ta có T= 42.463,3+94.624,3
T = 137.087,6
tỷ đồng
Hv = V/ T = 94.624,3/137.087,6
Hv = 0,69
Như
vậy, với số vốn 1 triệu đồng của doanh nghiệp Nghệ An đang sử dụng có tới 0,69
triệu đồng vốn vay.
Hệ
số nợ vay (Hv) phản ánh trong một đồng vốn kinh doanh mà doanh nghiệp hiện đang
sử dụng có mấy đồng vốn vay, khi đó mức độ góp vốn của chủ sở hữu là Hc = 1 –
Hv. Khi Hv càng lớn thì chủ sở hữu càng có lợi, vì khi đó chủ sở hữu chỉ phải
đóng góp một lượng vốn ít nhưng được sử dụng một lượng tài sản lớn. Đặc biệt
khi doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận trên tiền vay lớn hơn so với tiền lãi phải trả
thì phần lợi nhuận dành cho chủ sở hữu gia tăng rất nhanh.
Hc = 1- 0,69
Hv = 0,31
Như
vậy, với số vốn 1 triệu đồng của doanh nghiệp Nghệ An đang sử dụng có tới 0,31
triệu động vốn chủ sở hữu.
Độ lớn của đòn bẩy tài chính
Đòn bẩy tài chính
là sự đánh giá chính sách vay nợ được sử dụng trong việc điều hành doanh
nghiệp. Vì lãi vay phải trả không đổi khi sản lượng thay đổi, do đó đòn bẩy tài
chính sẽ rất lớn trong các doanh nghiệp có tỷ số nợ cao và ngược lại đòn bẩy
tài chính sẽ rất nhỏ nếu tỷ số nợ của doanh nghiệp thấp. Còn những doanh nghiệp
không mắc nợ (tỷ số nợ = 0) thì sẽ không có đòn bẩy tài chính. Như vậy đòn bẩy
tài chính đặt trọng tâm vào tỷ số nợ, khi đòn bẩy tài chính cao thì chỉ cần một
sự thay đổi nhỏ về lợi nhuận trước thuế và lãi vay cũng có thể làm tăng một tỷ
lệ cao hơn về doanh lợi vốn chủ sở hữu, nghĩa là tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
rất nhạy cảm khi mà EBIT thay đổi.
Qua nghiên cứu
2.173 doanh nghiệp, cho kết quả là 187 danh nghiệp có nợ phải trả = 0, tức là
187 doanh nghiệp không mắc nợ chiếm 8,6%; như vậy 187 doanh nghiệp không sử
dụng đòn bẫy tài chính.
Độ lớn đòn bẩy tài
chính (DFL:degree finance leverage) được xác định theo công thức:
DFL = tỷ lệ thay
đổi về vốn chủ sở hữu / tỷ lệ thay đổi của lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Nếu gọi I là lãi vay phải trả
thì
DFL = (Q0
(g - V) - F) / (Q0 (g - V) - F - I)
Công thức được chứng
minh như sau:
Khi tiêu thụ được sản phẩm, doanh nghiệp đạt lợi nhuận trước thuế và lãi
vay là:
P
= Q0 g - (F + Q0V) = Q0 (g - V) - F
Lợi nhuận sau thuế
là:
P’0
= (Q0 (g - V) - F - I) (1 - t%)
t: là thuế suất thuế
thu nhập doanh nghiệp
TSLN sau thuế vốn CSH là
P’0/C
= [Q0 (g - V) - F - I](1 - t%) / C
Khi tiêu thụ được sản phẩm doanh nghiệp đạt lợi
nhuận trước thuế và lãi vay là
P1
= Q1g - (F + Q1V) = Q1 (g - V) - F
Lợi nhuận sau thuế
là
P’1
= [Q1 (g - V) - F - I](1 - t%)
TSLN sau thuế vốn
CSH là
P’1 / C = [Q1
(g - V) - F - I](1- t%) / C
Gọi
ΔQ
= Q1 - Q0
ΔP = P1 - P0 = (Q1 -
Q0)(g - V) = ΔQ (g - V)
Mức tăng doanh lợi
vốn CSH được xác định là P’c
ΔP’c
= P’1 - P’0 = (Q1 - Q0)(g - V)(1 - t%)
/ C
= ΔQ (g - V)(1 - t%) / C
Với tỷ lệ thay đổi
về doanh lợi vốn chủ sở hữu khi sản lượng thay đổi là:
ΔP’c
/ P’oc = ΔQ (g - V) / [Q0 (g - V) -F - I] (1)
Và tỷ lệ thay đổi về lợi nhuận
trước thuế và lãi vay khi sản lượng thay đổi là:
ΔP
/ P0 = ΔQ (g - V) / Q0 (g - V) - F (2)
Từ công thức (1) và (2) ta tính
được độ lớn của đòn bẩy tài chính (DFL)
DEL
= P’c/ P’oc / P / P0
= [Q0 (g - V) - F] / [Q0
(g - V) - F - I]
Tác
dụng của đòn bẩy tài chính: Đòn bẩy tài chính được sử dụng rất nhiều trong giao
dịch thương mại, đặc biệt là ở đâu mà tài sản và nguồn vốn thực tế bao gồm trái
phiếu, cổ phiếu ưu đãi chứ không phải cổ phiếu thường. Đòn bẩy tài chính có
quan hệ với tương quan giữa thu nhập công ty trước khi trả lãi và nộp thuế và
thu nhập dành cho chủ sở hữu cổ phiếu thường và những cổ đông khác. Khả năng
gia tăng lợi nhuận cao là điều mong ước của các chủ sở hữu, trong đó đòn bẩy
tài chính là một công cụ được các nhà quản lý ưa dùng. Nhưng đòn bẩy tài chính
vừa là một công cụ tích cực cho việc khuyếch đại lợi nhuận ròng trên một đồng vốn
chủ sở hữu, vừa là một công cụ kìm hãm sự gia tăng đó. Sự thành công hay thất bại
này tuỳ thuộc vào nhà quản lý doanh nghiệp khi lựa chọn cơ cấu tài chính và việc
chọn lựa cơ cấu vốn (hệ số nợ cao hay thấp) sẽ làm tăng hoặc giảm tính mạo hiểm
của doanh nghiệp.
Xem xét, phân tích
việc sử dụng đòn bẩy tài chính có ý nghĩa rất lớn đối với người quản lý doanh
nghiệp trong việc định hướng tổ chức nguồn vốn của doanh nghiệp.
2.1.3. Đòn bẩy tổng hợp
Đòn bẩy tổng hợp phản ánh mối quan hệ giữa chi
phí bất biến và chi phí khả biến, độ lớn của đòn bẩy kinh doanh sẽ rất lớn ở
những doanh nghiệp có chi phí bất biến cao hơn chi phí khả biến. Những đòn bẩy
kinh doanh chỉ tác động đến lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Còn độ lớn của đòn
bẩy tài chính chỉ phụ thuộc vào tỷ số mắc nợ, do đó, đòn bẩy tài chính tác động
đến lợi nhuận sau thuế và lãi vay. Bởi vậy
khi ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh chấm dứt thì ảnh hưởng của đòn bẩy tài
chính sẽ thay thế để khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu khi doanh thu thay
đổi. Vì lẽ đó mà đòn bẩy tổng hợp ra đời, đòn bẩy tổng hợp là sự kết hợp của
đòn bẩy kinh doanh và đòn bẩy tài chính, độ lớn của đòn bẩy tổng hợp (DTL:
degree total leverage ) được xác định theo công thức sau:
DTL = DOL*DFL
DTL = Qo(g - V) / [Qo
(g - V) - F - I]
Từ công thức đòn
bẩy tổng hợp, chúng ta có nhận xét: một quyết định đầu tư vào tài sản cố định
và tài trợ cho việc đầu tư đó bằng vốn vay (phát hành trái phiếu, vay ngân
hàng..) sẽ cho phép doanh nghiệp xác định một cách chính xác sự biến động của
doanh thu ảnh hưởng như thế nào tới lợi nhuận của chủ sở hữu. Đòn bẩy tổng hợp
phản ánh tác động của đòn bẩy kinh doanh và đòn bẩy tài chính tới mức độ mạo
hiểm của công ty (mức độ của khả năng thanh toán các khoản nợ cố định kết hợp
với những khả năng không chắc chắn khác). Đòn bẩy tổng hợp cho biết khả năng
của công ty trong sử dụng chi phí hoạt động cố định và chi phí tài chính cố
định để nhân tác động khi thay đổi lượng bán tới thu nhập mỗi cổ phiếu. Nếu
lượng bán thay đổi 1% làm cho thu nhập mỗi cổ phiếu vượt quá % thay đổi của
lượng bán thì tác động của đòn bẩy tổng hợp sẽ dương.
Kết luận: Khi tác
động của những đòn bẩy tăng thì sự mạo hiểm của công ty cũng tăng, kể từ khi mà
sự mạo hiểm liên quan tới khả năng trang trải chi phí hoạt động cố định và chi
phí tài chính cố định của nó. Phân tích đòn bẩy là một phần của phân tích hoàn
vốn và cùng sử dụng những thông tin cơ bản: giá cả, sản lượng, chi phí khả
biến, chi phí bất biến …
Ba loại đòn bẩy đã
được đề cập ở trên sẽ giúp cho nhà quản lý tài chính đánh giá được mức độ các
loại rủi ro (rủi ro trong kinh doanh, rủi ro về mặt tài chính) mà doanh nghiệp
có thể gặp phải trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt
khác, sự hiểu biết về đòn bẩy còn giúp cho nhà quản lý tài chính doanh nghiệp
lựa chọn các biện pháp thích hợp với điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp
trong việc đầu tư, trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật và mức độ sử dụng vốn vay
để có thể tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, đồng thời đảm bảo an toàn
cho doanh nghiệp trong kinh doanh.
2.2. Hạ giá thành sản phẩm
Trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, khi quyết định lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh một loại
sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần phải tính đến lượng chi phí bỏ ra để sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm đó. Như vậy có nghĩa là doanh nghiệp phải xác định được
giá thành sản phẩm.
Khái niệm và ý
nghĩa của chỉ tiêu giá thành sản phẩm (Zsp): Giá thành sản phẩm là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và
tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định.
Trong công tác quản
lý chi phí sản xuất kinh doanh, chỉ tiêu giá thành sản phẩm giữ một vai trò
quan trọng, thể hiện trên các mặt sau:
Giá
thành là thước đo mức chi phí tiêu hao phải bù đắp, là một căn cứ để xác định
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Để quyết định lựa chọn sản xuất một loại sản phẩm
nào đó, doanh nghiệp phải nắm được nhu cầu thị trường, giá cả thị trường và điều
tất yếu phải biết mức chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp phải
bỏ ra. Trên cơ sở đó mới xác định được hiệu quả sản xuất kinh doanh của loại sản
phẩm đó để quyết định lựa chọn và quyết định khối lượng sản xuất nhằm đạt được
lợi nhuận tối đa. Khi xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh thực tế một loại sản
phẩm nhất định cũng cần phả xác định chính xác giá thành thực tế của nó.
Giá
thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức kỹ thuật. Thông
qua tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, doanh nghiệp có thể xem xét tình
hình sản xuất và bỏ chi phí vào sản xuất, tác động và hiệu quả thực hiện các biện
pháp tổ chức kỹ thuật đến sản xuất, phát hiện và tìm ra nguyên nhân dẫn đến
phát sinh chi phí không hợp lý để có biện pháp khắc phục.
Giá
thành là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp định giá cả đối với từng loại sản
phẩm.
Biện pháp hạ giá
thành sản phẩm
Với ý nghĩa quan
trọng nêu trên, trong hoạt động sản xuất kinh doanh một yêu cầu khách quan đặt
ra cho các doanh nghiệp là phải quan tâm tìm biện pháp hạ thấp giá thành sản
phẩm nhằm tăng lợi nhuận. Muốn hạ thấp giá thành sản phẩm doanh nghiệp cần phải
thực hiện các biện pháp chủ yếu sau:
Một là, nâng cao
năng suất lao động. Nâng cao năng suất lao động làm cho số giờ công tiêu hao để
sản xuất ra mỗi đơn vị sản phẩm giảm bớt hoặc làm cho số lượng sản phẩm sản xuất
ra trong một đơn vị thời gian tăng thêm. Kết quả của việc nâng cao năng suất
lao động làm cho chi phí về tiền lương của công nhân sản xuất và một số khoản
chi phí cố định khác trong giá thành được hạ thấp. Nhưng sau khi năng suất lao
động tăng thêm, chi phí tiền lương trong mỗi đơn vị sản phẩm hạ thấp nhiều hay
ít còn phụ thuộc vào chênh lệch giữa tốc độ tăng năng suất lao động và tốc độ
tăng lương bình quân. Vì vậy, khi xây dựng kế hoạch và quản lý quỹ tiền lương
phải quán triệt nguyên tắc: tốc độ tăng năng suất lao động phải lớn hơn tốc độ
tăng lương bình quân sao cho việc tăng năng suất lao động một phần dùng để tăng
thêm tiền lương, nâng cao mức sống cho công nhân viên chức trong doanh nghiệp,
phần khác để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp, đảm bảo phát triển sản xuất.
Muốn không ngừng nâng cao năng suất lao động để hạ thấp giá thành sản phẩm,
doanh nghiệp phải nhanh chóng đón nhận sự tiến bộ của Khoa học công nghệ, áp dụng
những thành tựu về khoa học công nghệ mới vào sản xuất. Tổ chức lao động khoa học
tránh lãng phí sức lao động và máy móc thiết bị, động viên sức sáng tạo của con
người, ngày càng cống hiến tài năng cho doanh nghiệp.
Hai là, tiết kiệm
nguyên nhiên vật liệu tiêu hao. Nguyên, nhiên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong
giá thành sản phẩm, thường vào khoảng 60% đến 70%. Bởi vậy, phấn đấu tiết kiệm
nguyên nhiên vật liệu tiêu hao có ý nghĩa quan trọng đối với việc hạ thấp giá
thành sản phẩm. Muốn tiết kiệm nguyên vật liệu tiêu hao doanh nghiệp phải xây dựng
định mức tiêu hao tiên tiến và thực hiện theo kế hoạch đã đề ra để khống chế sản
lượng tiêu hao, cải tiến kỹ thuật sản xuất và thiết kế sản phẩm nhằm giảm bớt số
lượng tiêu hao cho mỗi đơn vị sản phẩm, sử dụng vật liệu thay thế và tận dụng
phế liệu phế phẩm, cải tiến công tác mua, công tác bảo quản để vừa giảm tối đa
nguyên vật liệu hư hỏng kém phẩm chất vừa giảm được chi phí mua nguyên vật liệu.
Ba là, tận dụng
công suất máy móc thiết bị. Khi sử dụng phải làm cho các loại máy móc thiết bị
sản xuất phát huy hết khả năng hiện có của chúng để sản xuất sản phẩm được nhiều
hơn, để chi phí khấu hao và một số chi phí cố định khác giảm bớt một cách tương
ứng trong một đơn vị sản phẩm. Muốn tận dụng tối đa công suất máy móc thiết bị
phải lập kế hoạch sản xuất và phải chấp hành đúng đắn sử dụng thiết bị, chấp
hành nghiêm chỉnh chế độ bảo quản, kiểm tra, sửa chữa thường xuyên, tổ chức sản
xuất và tổ chức lao động hợp lý, cân đối năng lực sản xuất trong dây truyền sản
xuất, cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng lực sản xuất của máy móc thiết bị.
Bốn là, giảm bớt những tổn thất trong sản xuất. Những
tổn thất trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp là những chi phí về sản phẩm
hỏng và chi phí ngừng sản xuất. Các khoản chi phí này không tạo thành giá trị sản
phẩm nhưng nếu phát sinh trong sản xuất đều dẫn đến lãng phí và chi phí nhân lực,
vật lực, giá thành sản phẩm sẽ tăng cao. Bởi vậy, doanh nghiệp phải cố gắng giảm
bớt những tổn thất về mặt này. Muốn giảm bớt sản phẩm hỏng phải không ngừng nâng
cao kỹ thuật sản xuất, công nghệ và phương pháp thao tác. Nâng cao ý thức trách
nhiệm trong sản xuất, vật liệu và máy móc thiết bị dùng trong sản xuất phải đảm
bảo yêu cầu kỹ thuật, xây dựng và chấp hành nghiêm chỉnh chế độ kiểm tra chất
lượng sản xuất ở các công đoạn sản xuất, thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất
khi xảy ra sản phẩm hỏng.
Năm là, tiết kiệm
chi phí quản lý hành chính. Chi phí quản lý hành chính bao gồm tiền lương của
cán bộ nhân viên quản lý, chi phí về văn phòng, bưu điện tiếp tân, khánh tiết…
Muốn tiết kiệm chi phí quản lý hành chính doanh nghiệp phải chấp hành nghiêm chỉnh
dự toán chi phí về quản lý hành chính. Mặt khác, luôn phải cải tiến phương pháp
làm việc để nâng cao hiệu suất trong công tác quản lý, giảm bớt số lượng nhân
viên quản lý. Ngoài ra việc phấn đấu tăng năng suất lao động để tăng thêm sản
lượng cũng là biện pháp quan trọng để giảm chi phí quản lý hành chính.
Trên đây là những
biện pháp chủ yếu để phấn đấu hạ giá thành sản phẩm của một doanh nghiệp. Người
quản lý tài chính doanh nghiệp có thể chọn những biện pháp thích hợp để hạ giá
thành sản phẩm, căn cứ vào tình hình sản xuất và điều kiện cụ thể của từng
doanh nghiệp.
2.3. Tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm
Doanh thu từ hoạt
động sản xuất kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch
vụ của doanh nghiệp sau khi trừ đi các khoản giảm trừ doanh thu (giảm giá hàng
bán, chiết khấu hàng bán, giá trị hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế xuất nhập khẩu). Doanh thu là bộ phận quan trọng quyết định sự tồn tại của
doanh nghiệp. Ngoài phần doanh thu do tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp sản
xuất ra còn bao gồm những khoản doanh thu do hoạt động tài chính và những khoản
doanh thu từ hoạt động khác mang lại.
Doanh thu tiêu thụ
sản phẩm có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, đây là chỉ tiêu quan trọng không những đối với bản thân doanh nghiệp mà
còn có ý nghĩa đối với cả nền kinh tế quốc dân.
Doanh
thu tiêu thụ sản phẩm là nguồn tài chính quan trọng để doanh nghiệp trang trải
các khoản chi phí về công cụ, dụng cụ, đối tượng lao động đã hao phí trong quá
trình sản xuất kinh doanh hay nói khác đi là doanh thu tiêu thụ sản phẩm đã
trang trải số vốn ứng ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho doanh
nghiệp có thể tái sản xuất giản đơn cũng như tái sản xuất mở rộng. Doanh thu
tiêu thụ sản phẩm còn là nguồn tài chính để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ đối
với ngân sách nhà nước như nộp các khoản thuế theo quy định, là nguồn tài chính
để doanh nghiệp tham gia góp vốn cổ phần, tham gia liên doanh, liên kết với các
đơn vị khác.
Thực
hiện doanh thu bán hàng đầy đủ, kịp thời góp phần thúc đẩy tăng nhanh tốc độ
luân chuyển vốn lưu động, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất sau của
doanh nghiệp. Vì vậy, tình hình thực hiện chỉ tiêu doanh thu bán hàng có ảnh hưởng
rất lớn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như quá trình tái sản xuất.
Trường hợp doanh thu không đủ đảm bảo trang trải các khoản chi phí đã bỏ ra thì
doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về tài chính, nếu tình trạng này kéo dài thì doanh
nghiệp sẽ không đủ sức cạnh tranh trên thị trường và tất yếu đi tới phá sản.
Biện pháp tăng
doanh thu tiêu thụ sản phẩm: Như đã đề cập phần trên, để tăng cường doanh thu
thuần một mặt phải tăng được tổng doanh thu, mặt khác theo quan điểm của toán
học phải giảm được bốn yếu tố giảm trừ doanh thu là: chiết khấu hàng bán, giảm
giá hàng bán, giá trị hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất
nhập khẩu. Nhưng xét từ quan điểm kinh tế, đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh
ngày càng trở nên quyết liệt, để kích thích tiêu dùng và trên cơ sở đó tăng
khối lượng sản phẩm tiêu thụ cần thiết phải có chiết khấu cho người mua, giảm
giá cho khách hàng khi họ mua hàng hoá với khối lượng lớn. Còn các loại thuế
gián thu là do nhà nước quy định doanh nghiệp không thể tự ý giảm được mà phải
chấp hành một cách nghiêm chỉnh. Như vậy, để tăng tổng doanh thu doanh nghiệp
cần phải áp dụng các biện pháp sau:
Một là, tăng khối
lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ hoặc lao vụ, dịch vụ cung ứng. Khối lượng sản
phẩm sản xuất hoặc lao vụ, dịch vụ cung ứng càng nhiều thì khả năng về doanh
thu càng lớn. Tuy nhiên khối lượng sản xuất sản phẩm và tiêu thụ còn phụ thuộc
vào quy mô của doanh nghiệp, tình hình tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, việc
ký kết hợp đồng, tiêu thụ đối với khách hàng, việc giao hàng, vận chuyển và
thanh toán tiền hàng.
Hai là, nâng cao chất
lượng sản phẩm. Việc sản xuất kinh doanh phải gắn liền với việc đảm bảo nâng
cao chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch
vụ không những ảnh hưởng tới giá bán của sản phẩm mà còn ảnh hưởng tới khối lượng
tiêu thụ sản phẩm. Do đó, nó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là giá trị được tạo thêm, tạo điều kiện cho tiêu thụ sản phẩm
dễ dàng, nhanh chóng thu được tiền bán hàng và góp phần tăng doanh thu.
Ba là, xác định
giá bán sản phẩm hợp lý. Mỗi doanh nghiệp có thể sản xuất nhiều sản phẩm khác
nhau, số sản phẩm được phân loại thành nhiều phẩm cấp khác nhau và đương nhiên
giá bán của mỗi loại cũng khác nhau, sản phẩm có chất lượng cao sẽ có giá bán
cao và ngược lại. Trong trường hợp nếu như các nhân tố không thay đổi, việc
thay đổi giá bán sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng, giảm doanh thu
của doanh nghiệp, việc định giá bán sản phẩm phải dựa vào nhiều căn cứ: những sản
phẩm có tính chất chiến lược đối với nền kinh tế thì nhà nước sẽ định giá, còn
lại căn cứ vào chủ trương có tính chất hướng dẫn của nhà nước, doanh nghiệp sẽ
dựa vào tình hình cung cầu trên thị trường mà xây dựng giá bán cho sản phẩm sản
xuất ra. Khi doanh nghiệp định giá bán sản phẩm hoặc giá cung ứng dịch vụ phải
cân nhắc sao cho giá bán đó phải bù đắp được phần tư liệu vật chất đã tiêu hao,
đủ trả lương cho người lao động và có lợi nhuận thoả đáng để thực hiện tái sản
xuất mở rộng.
Bốn là, xây dựng kết
cấu mặt hàng tối ưu. Việc thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất cũng có ảnh hưởng
đến việc tăng hoặc giảm doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Khi doanh nghiệp sản xuất
có thể có những mặt hàng yêu cầu chi phí tương đối ít nhưng giá bán lại tương đối
cao, song cũng có những mặt hàng đòi hỏi chi phí cao nhưng giá bán lại thấp. Mặt
khác cũng cần thấy rằng mỗi loại sản phẩm có công dụng khác nhau trong việc thoả
mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Bởi vậy, phấn đấu tăng doanh thu các doanh
nghiệp phải tập trung sản xuất những mặt hàng có chi phí thấp nhưng giá bán cao
và hạn chế sản xuất những mặt hàng có chi phí cao giá bán thấp, bên cạnh đó
doanh nghiệp cũng phải chú ý đến việc thực hiện đảm bảo kế hoạch sản xuất những
mặt hàng mà doanh nghiệp đã ký kết hợp đồng trách nhiệm sản xuất.
Năm là, tổ chức tốt
công tác quản lý, kiểm tra và tiếp thị. Việc tổ chức kiểm tra tình hình thanh
toán và tổ chức công tác tiếp thị, quảng cáo, giới thiệu, bảo hành sản phẩm đều
có ý nghĩa giúp sản phẩm doanh nghiệp có tính cạnh tranh cao, góp phần làm tăng
khối lượng sản phẩm tiêu thụ, nâng cao doanh thu bán hàng.
Nguồn: Ngụy Khắc Chiến, Cục Thống
kê tỉnh Nghệ An
|